Tuy nhiên, để tận dụng hết cơ hội mà công nghệ số mang lại, doanh nghiệp cần xây dựng mục tiêu và giải pháp đúng đắn. Công nghệ số mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời mang theo nhiều thách thức. Bài viết này tập trung vào việc phân tích cơ hội và thách thức trong phát triển công nghệ số của doanh nghiệp Việt Nam.
Hưởng ứng công nghệ số quốc gia, hệ thống thông tin được xây dựng rộng khắp và ngày càng hiện đại, các công ty công nghệ số đã phủ rộng đến tận các vùng nông thôn và miền núi, phổ biến, hướng dẫn người dân sử dụng các nền tảng số phục vụ công việc và đời sống giúp tiết kiệm thời gian di chuyển.
Nguồn nhân lực về công nghệ của Việt Nam được đào tạo bài bản, hàng năm có gần 50.000 sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ thông tin, cung cấp một nguồn tài năng công nghệ cao, chi phí thấp tham gia vào thị trường lao động.
Nền kinh tế những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng cao với thị trường nội địa lớn và đa dạng, số lượng người tiêu dùng sử dụng công nghệ số ngày càng tăng và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.
Hiện nay, Việt Nam có trên 64.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ số. Trong đó có các doanh nghiệp có chiến lược phát triển phù hợp với cách mạng công nghệ 4.0 như VNPT với Chiến lược VNPT 4.0, Viettel có chiến lược dẫn dắt và lan tỏa về công nghệ, dịch vụ, mô hình kinh doanh, nghiên cứu sản xuất… Các doanh nghiệp này có khả năng phát triển sản phẩm nhanh, đã phát huy mạnh mẽ trong giai đoạn đại dịch Covid-19, giúp giảm bớt sự lây lan của dịch bệnh, giảm áp lực doanh thu cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể khai thác được hết tiềm năng của thị trường nội địa và duy trì sự bền vững cần sự sáng tạo trong việc phát triển sản phẩm mới để thuận tiện và an toàn hơn cho người tiêu dùng.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với các tổ chức quốc tế trong hầu hết các lĩnh vực, là cơ hội mở ra nhiều sản phẩm công nghệ quốc tế mới. Năm 2021, Nhà nước đã vinh danh 48 sản phẩm công nghệ số Make in Vietnam.
Những năm gần đây các công ty đa quốc gia có xu thế dịch chuyển hoạt động sản xuất từ những nước có tình trạng bất ổn sang Việt Nam, nắm bắt được cơ hội này chúng ta đã thu hút đầu tư của các doanh nghiệp công nghệ quốc tế. Năm 2021, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tăng 9,2% so với năm 2020, cho thấy môi trường đầu tư Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng, mở ra nhiều cơ hội hợp tác giao lưu cho các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam. Các hoạt động chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia vào sự phát triển chung của toàn cầu. Mặc khác, đầu tư vào ngành công nghệ của các nhà đầu tư trong nước ngày càng tăng. Một số doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực màu mỡ này. Cổ phần của các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam cũng được các công ty công nghệ nước ngoài quan tâm. Bên cạnh đó, đầu tư trong hoạt động khởi nghiệp bằng kinh doanh công nghệ số đã thu hút nguồn đầu tư đa dạng từ các nhà đầu tư trong nước thông qua các chương trình khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, có một yếu tố thúc đẩy sự phát triển công nghệ số của Việt Nam đó là dân số trẻ, nhạy bén với cái mới, số người dùng thiết bị thông minh chiếm tỷ lệ cao. Tính đến năm 2021, dân số trung bình của Việt Nam là 98,51 triệu người, nhóm dân số trong độ tuổi từ 15-24 tuổi chiếm đến tới 70%. Theo UNFPA, Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” và sẽ kết thúc vào năm 2040. Số người trong độ tuổi lao động gấp đôi số người trong độ tuổi phụ thuộc. Đây chính là tiềm năng cho phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có ngành Công nghiệp công nghệ số.
Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 lên hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế nhưng lĩnh vực công nghệ dẫn giữ được sự tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2015 – 2020 đạt bình quân 15,2%/năm, cao hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP, là một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất của cả nước. Vì được coi là cốt lõi của nền kinh tế nên ngành công nghiệp công nghệ số cũng đối mặt với các nguy cơ và thách thức cần nhiều chính sách để giải quyết.
Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghệ trong khu vực ASEAN là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam. Các nước ASEAN cũng có thế mạnh về nhân công giá rẻ, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của nhà nước trong phát triển doanh nghiệp công nghệ như Trung Quốc hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp phát triển các công nghệ lõi nhằm giảm sự phụ thuộc nước ngoài. Bên cạnh đó, các nước khu vực còn bảo vệ thị trường trong nước bằng sự bảo hộ quốc gia.
Để có thể đối mặt với cạnh tranh và nghiên cứu phương hướng phát triển, các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam cần chủ động giải quyết các vấn đề đang tồn tại như: nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ, năng lực sáng tạo, năng lực thiết kế công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực AI… tiếp tục nghiên cứu – phát triển công nghệ số mới. Đây là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam do việc chuyển đổi số chỉ vừa mới được thực hiện trong những năm gần đây. Vì vậy, doanh nghiệp cần sự hỗ trợ của Chính phủ để có đủ nội lực cạnh tranh bình đẳng với các nước trong khu vực. Nhà nước cần tham mưu xây dựng các chính sách, hành lang pháp lý chặt chẽ nhằm tạo môi trường cạnh tranh công bằng giúp các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam nhanh chóng cập nhật xu hướng thế giới, vươn tầm phát triển.
Ngoài ra, các sản phẩm phục vụ cho công nghệ số như phần cứng, phần mềm… vẫn còn phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Vì chưa tự chủ trong sản xuất, Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi thị trường bất ổn, hoạt động xuất nhập khẩu bị đình trệ, hoạt động sản xuất – kinh doanh cũng ảnh hưởng theo. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng tìm cơ hội kinh doanh mới, cân đối giữa thị trường trong nước và quốc tế. Thị trường trong nước cần phải phát triển ổn định để đảm bảo sự tồn tại trong tình huống thị trường quốc tế có nhiều sự biến động.
Việc phát triển công nghệ số mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam. Sự hỗ trợ từ chính phủ, đào tạo nguồn nhân lực, và tạo điều kiện thuận lợi là chìa khóa để doanh nghiệp vượt qua những thách thức và tận dụng hết cơ hội mà công nghệ số mang lại.
Hầu hết các doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng nghiên cứu, đầu tư cho các công nghệ mới còn hạn chế nên dễ bị các nhà đầu tư nước ngoài thâu tóm ảnh hưởng đến sự phát triển ngành Công nghiệp công nghệ Việt Nam.
Dù Luật Tiếp cận thông tin đã hướng dẫn rõ (Luật số 104/2016/QH13), Nghị định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của các CQNN (Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020) nhưng hiện tại dữ liệu tại các bộ, ngành ở Việt Nam chia sẻ rất hạn chế. Doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận dữ liệu của Chính phủ để triển khai các sản phẩm, dịch vụ phù hợp, đặc biệt là phát triển các sản phẩm công nghệ tiên tiến như AI, phân tích dữ liệu… Bên cạnh đó, các nền tảng mạng xã hội lớn như Facebook, Tik tok… mở ra mô hình kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mới xuyên biên giới. Các dữ liệu của các tổ chức, cá nhân, bị khai thác triệt để, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong một số lĩnh vực lao động phổ thông dần được thay thế bằng tự động hóa và công nghệ trí tuệ nhân tạo. Các hãng công nghệ trên thế giới đang có một làn sóng sa thải nhân sự lớn và thay thế bằng ứng dụng công nghệ AI. Việt Nam có nguy cơ mất lợi thế về nhân công giá rẻ và chảy máu chất xám vì nhân sự công nghệ chất lượng cao bị các doanh nghiệp nước ngoài thu hút, phạm vi làm việc toàn cầu nhờ kết nối mạng nên biện pháp quản lý truyền thống không còn cần thiết.
Với những thách thức này, các doanh nghiệp công nghệ số cần triển khai những hoạt động, đặc biệt là đào tạo đội ngũ nhân sự có kỹ năng làm việc phù hợp với yêu cầu đổi mới. Doanh nghiệp cần cải tổ lại quy trình cung cấp dịch vụ, cơ cấu tổ chức tinh gọn, minh bạch, trách nhiệm và tự chủ.
Theo Tạp chí môi trường